GIÓ ĐƯA GIÓ ĐẨY

28/03/2022 08:12:49 PM         

Sinh năm 1924, Trang Thế Hy đã tham gia trọn vẹn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau năm 1975 ông sống và mất vào năm 2015 tại quê nhà, huyện Châu Thành, thành phố Bến Tre.

thanh thảo

 
  gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
về sông ăn cá về đồng ăn cua”                                                                                                             
                                                   ( ca dao)
 
 
 
- Nhà văn Trang Thế Hy (phải) và nhà thơ Thanh Thảo (trái)
 
 
Về nhà văn Trang Thế Hy, TỪ ĐIỂN VĂN HỌC( bộ mới) viết:  “Trang Thế Hy chuyên viết truyện ngắn và ký. Những tập truyện ký đã xuất bản: Nắng đẹp miền quê ngoại(1964), Mưa ấm( 1981), Người yêu và mùa thu(1981), Vết thương thứ mười ba( 1989), Tiếng khóc và tiếng hát(1993). Tác phẩm mới nhất, có thể coi như một tuyển tập của ông: Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác(2001)”. Và TỪ ĐIỂN trích một câu trong một truyện ngắn của Trang Thế Hy để nói về quan niệm nghệ thuật của chính tác giả : “ Tôi nghe đó ( từ câu chuyện của chị bán thuốc lá) là lời răn dạy rất nghiêm có giá trị thức tỉnh cao của một hiện thực đau buồn nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất cái điểm tựa đáng tin cậy của mình là nỗi đau khổ lớn của số đông thầm lặng”.
 
 
Sinh năm 1924, Trang Thế Hy đã tham gia trọn vẹn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau năm 1975 ông sống và mất vào năm 2015 tại quê nhà, huyện Châu Thành, thành phố Bến Tre.
 
Có thể nói cả đời Trang Thế Hy thuận theo những con “ gió đưa gió đẩy”. Gọi những con gió ấy là số phận cũng được, mà gọi là sự tình cờ vô thường cũng xong! Nghe nói, hồi ở chiến khu miền Đông Nam Bộ, Trang Thế Hy luôn thủ sẵn vài trăm…lưỡi câu để sẵn sàng giăng câu kiếm cá, hay ông có biệt tài bắt…nhái băm chả, câu rắn mối, biến những điều không thể thành có thể, viết chầm chậm những câu văn trong khi chờ mấy gã chuột sa bẫy trong những đêm rừng lạnh. Ngày đó, tôi ở bên binh vận cùng Lưu Kiểng Xuân-một nhà văn đặc Nam Bộ quê Cần Đước Long An.  Anh Tư Xuân vốn là trung úy lái trực thăng của quân đội Sài Gòn, nhưng là cơ sở cách mạng ở nội thành, là cộng tác viên của nhóm Tin Văn-tên một tờ tạp chí văn nghệ thiên tả, có liên hệ với cách mạng. Tư Xuân sau đó đã lên chiến khu, viết truyện và bút ký có nhân vật là lính Sài Gòn, nên được đưa về ban tuyên truyền binh vận. Còn tôi chỉ là anh sinh viên mới tốt nghiệp ở Hà Nội, vào bộ đội chưa lâu, cũng làm tuyên truyền binh vận cho đài phát thanh, rồi đi B2, rồi về ban binh vận, rồi…Chúng tôi chơi với nhau do có chút máu văn chương, và mỗi lần, khi chuyện trò về văn học, bao giờ Tư Xuân cũng léo vào cái tên Trang Thế Hy dưới biệt danh thân mật là “Tư Sâm”: “ Tui khoái cha Tư Sâm này, văn chả kỹ mà sâu, lại đúng giọng Nam Bộ!” Dù chưa gặp Trang Thế Hy, cũng chưa có may mắn đọc văn ông-trong rừng mấy thứ văn chương còn hiếm hơn cả chuột hay rắn mối-nhưng tôi tự nhiên có cảm tình với Trang Thế Hy từ đó. Qua Tư Xuân, tôi còn biết Tư Sâm là người có “hoàn cảnh” có tâm trạng và nhiều lúc rất buồn, cô đơn nữa. Như thế lại giống Tư Xuân và tôi. Có một lần, Tư Xuân rủ tôi đi sang cứ của ban văn nghệ R chơi, thăm Tư Sâm. Tiếc thay, lần đó khi chúng tôi mất nửa ngày trời băng qua những trảng cỏ voi và rừng dầu đến với Tư Sâm, thì ông lại đi công tác chiến trường, không có ở cứ. Hai chúng tôi được nhà văn Anh Đức tiếp tại nhà, đãi một bữa cơm có thịt hẳn một con gà-điều quá hiếm ở rừng hồi ấy. Thôi thì ông anh Tư Sâm cũng xá cho, tôi với Tư Xuân chẳng qua cũng “gió đưa gió đẩy về cứ ăn…gà” chứ chúng tôi không cố ý. Hôm đó, trở về qua trảng cỏ voi, và tôi viết được bài thơ “Những dấu chân qua trảng cỏ”. Âu cũng là cái duyên với Trang Thế Hy, dẫu chưa gặp được ông, nhưng nhờ chuyến thăm hụt ông mà lận lưng được bài thơ không đến nỗi nào, vậy là ấm bụng! Cách đây đã nhiều năm, khi gửi tặng tôi tuyển tập truyện ngắn “Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác”-Lão nhà văn Trang Thế Hy đề tặng:“Tặng Thanh Thảo, người trở về vùng Tháp Chàm còn để lại ở rừng già phương Nam những “dấu chân trên trảng cỏ”. Một lời đề tặng vừa tình cảm vừa “kỹ”- đúng văn chất Trang Thế Hy. Hoá ra ở đời vẫn có những tương hợp tình cờ như thế, “gió đưa gió đẩy” chúng tôi qua những cánh rừng Miền Đông những bưng biền Đồng Tháp để cuối cùng, dù người về Bến Tre “đứng như bóng dừa”, kẻ trở lại quê nhà miền Trung nương bóng Tháp Chàm, ăn don và cả ăn đòn, thì vào năm 2005, chúng tôi lại gặp nhau…ăn cua. Vâng, ăn cua hai da. Ngay tại thành phố Bến Tre( hồi đó còn là thị xã), sát mé sông Hàm Luông hẳn hoi. Tôi, nhà thơ Chim Trắng với nhà giáo dạy văn Nguyễn Tấn Huy từ Sài Gòn về Bến Tre thăm lão trượng Trang Thế Hy. Khi đó Chim Trắng đã ngót 70 mà tay lái còn “lụa” lắm! Nghe nói ở quê tôi có ông chủ tịch ít tuổi hơn Chim Trắng nhưng mới về hưu, nhớ tiếc một thời vàng son oanh liệt nên “Buổi sáng ông mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường”…chờ xe, kết luận theo thơ Trần Vàng Sao thì ông là “một người yêu nước mình”. Đứng chờ xe, dẫu xe không đến, là còn muốn làm việc, là còn “yêu nước mình”, chứ sao ! Chim Trắng cười ngất, nói là anh sẵn sàng ra Quảng lái xe hầu “một người yêu nước mình” ấy. Anh vốn hâm mộ những người yêu nước. Chúng tôi ăn cua cốm, thứ cua hai da vừa lột chưa lâu, có gạch béo và mềm, hạp với răng cỏ lão nhà văn. Lỗ Tấn có biệt tài là viết nhấn, mỗi câu văn là một con sóng, con sau cao hơn, mạnh hơn con trướcShekhov thú nhận là mình không thật đam mê trong bất cứ việc gì, cả làm thuốc và viết văn. Tôi nói với Nguyễn Quang Sáng, anh viết về tôi đúng cả, chỉ có cái này là sai: Trang Thế Hy quyết sống chết với văn chương. Không có đâu! Tôi chỉ dám là “người tình thoáng chốc” của văn chương thôi. Tôi không ăn thua đủ về bất cứ cái gì. Đó là cái dở nhất của tôi. Kể cả giải thưởng mà người ta định trao cho ông rồi…thôi ? Ừ, cả giải thưởng. Nhưng tôi phải thú nhận là tôi có sốc nhẹ, vì khi nghe thông báo cứ như đã “được rồi”, tôi lỡ dại khoe với mấy người bà con nghèo, là Tư Sâm sắp khá, có món tiền to, sẽ biếu mấy anh em chút đỉnh tiêu chơi. Nào ngờ. Coi như tôi nói dối họ. Không nói dối đâu, anh Tư, nhưng là nói chưa thành sự thật. Quán ăn Trương Ký, lão nhà văn khẽ khàng gắp miếng cá chẽm kho ngọt có để chanh, chiêu ngụm rượu vang trắng Alsace chánh hiệu mà Chim Trắng mang từ Sài Gòn xuống. Lỗ Tấn nói “nhà văn như con bò ăn cỏ khô rơm khô nhưng phải cho đời sữa tươi”. Tôi đế: cá chẽm với vang Pháp cũng là cỏ khô sao anh Tư ? Lão nhà văn cười mỉm mỉm. Ở đời, như Gorki phân loại, thì có hai kiểu chết: một là cháy bùng lên, hai là mục rã. Tôi thuộc loại thứ 2. Nhưng cố gắng làm sao mục rã coi cho được. Kể cả bùng cháy, cũng đừng bùng cháy khó coi, phải hông anh Tư ? Lại cười mỉm mỉm. Cua cốm này ăn đậm, cua cũng phải tới kỳ, ăn mới ngon, nữa là văn chương.
Trang Thế Hy đeo bên thắt lưng một điện thoại loại xịn nhất, dường như có kết nối toàn cầu, màu bạc sáng loáng. Thỉnh thoảng ông lại móc điện thoại, mở nắp, chiêu một ngụm. Một ngụm thông tin toàn cầu ? Rượu này tôi đặt riêng, nấu bằng nếp, uống thử coi, ngon hơn rượu Tây đó!  Chúng tôi cứ trò chuyện lai rai không đâu vào đâu. Bóng tối len nhẹ vào quán trên những bước chân mèo, và trong ánh chập chờn, mắt ông lão nhà văn lấp láy. Người như thế có khi biết mà không nói, có khi nói nửa câu những gì mình nghiền ngẫm trọn đời. Nửa câu còn lại, để gió sông Hàm Luông giải quyết. Hồi trưa, lúc ngồi với Trang Thế Hy trong vườn dừa nhà ông, tôi để ý vườn dừa nhà bên có những miếng thiếc trơn bề rộng độ 3 tấc bao quanh thân dừa. Ngạc nhiên tôi hỏi, lão nhà văn cho biết, đó là cách ngăn chuột ăn dừa. Chuột dừa ở xứ cù lao này răng sắc và chịu khó lao động. Chúng phải gặm xuyên qua vỏ quả dừa, xuyên cả gáo dừa mới ăn được cơm dừa. Ăn cơm dừa nhưng không uống nước dừa, mà chỉ uống nước mương. Nên chúng phải trèo lên leo xuống. Những miếng thiếc kia khác nào những “cột mỡ” đối với chúng. Xuống cũng té “bịch”, mà lên cũng té “bịch”. Nhưng tôi không có tiền bao thiếc quanh thân dừa nhà mình, mỗi miếng thiếc tới 30 nghìn đồng lận. Nghĩa là vì nghèo mà ông có tình thử đạo? Tôi chọc. Tôi bây giờ “đêm nghe dừa rụng ngày nhìn chuột rơi”, kể cả dừa và chuột hàng xóm. Những tiếng rơi ấy, nghe buồn lắm.
Tôi nhìn dáng ông lão lầm lũi đi con đường đất lầy lội dọc bờ mương về nhà mình, lúc chúng tôi chia tay nhau. Biết đâu au revoir (tạm biệt) chẳng là adieu ( vĩnh biệt). Ông nói, giọng ngùi ngùi. Lần đầu tiên sau 24 giờ gặp nhau, tôi nghe một thoáng hẫng như đã từng đọc “những ổ gà không khí” có rất nhiều trong văn ông. Những cú hẫng những ổ gà những khoảng lặng như thế trong văn Trang Thế Hy bao giờ nghe lại đọc lại cũng khiến tôi ngùi ngùi. Ông đã 83 tuổi, cầu Rạch Miễu làm chưa xong, còn đoạn đường vô nhà ông vẫn sình lầy. Bao giờ ? Vâng, bao giờ  chúng tôi gặp lại nhau ?
Vâng, chúng tôi còn gặp nhau mấy lần nữa, vẫn tôi và nhà thơ Chim Trắng về xứ dừa tìm ông lão nhà văn. Cho tới tháng 9 năm 2011, nhà thơ Chim Trắng đột ngột qua đời. Từ đó, tôi như đứt đường về Bến Tre thăm lão nhà văn Trang Thế Hy. Tới năm 2015, khi tôi đang ở Quảng Ngãi quê nhà, thì hay tin ông mất. Năm nay, 2020, nhằm dịp kỷ niệm 5 năm ngày cố nhà văn Trang Thế Hy vĩnh biệt vườn dừa của mình, tôi chợt ngậm ngùi. Thì cũng là « gió đưa gió đẩy » cả mà, anh Tư ơi !
 
 
Vĩ thanh :
 
Vậy mà đã 7 năm. Ngày ấy, anh Chim Trắng còn khỏe, còn lái xe chở vợ chồng tôi xuống Bến Tre thăm lão nhà văn Trang Thế Hy. Ngày ấy chúng tôi còn uống với nhau vài ly rượu, vài chai bia, ăn với nhau mấy miếng lươn om lá cách, ở một quán nào đó ven sông Hàm Luông, và tôi đã khen món nhậu này ngon. Ông lão Tư Sâm (Trang Thế Hy) cười, không còn răng vẫn có thể cười, vẫn có thể nói vài câu hóm hỉnh, đúng tính cách người Nam Bộ. Ngày ấy, chưa xa lắm mà âm dương cách biệt. Lão nhà văn Trang Thế Hy và nhà thơ Chim Trắng đều đã về cõi vĩnh hằng, nơi không ai biết thế nào, nhưng ai rồi cũng về nơi đó. Ngày ấy, ông lão nhà văn tặng tôi một tập thơ, tôi xem ngày tháng ghi dưới mỗi bài thơ thì thấy, hầu hết những bài thơ trong tập thơ ấy đều được viết ra trong một năm. Nghĩa là nhu cầu thơ ca chợt đến, và chỉ đến trong đúng một năm, với một người viết văn xuôi. Có thể cuộc đời dài hơn 90 năm của nhà văn Trang Thế Hy chỉ dồn vào đúng một năm Thơ ấy, rồi ngắt. Vừa rồi, cầm Tạp chí Thơ của HNV VN, tôi đã được đọc một chùm thơ của văn hào Nga Ilia Erhenburg, chùm thơ rất hay, và nếu ai không biết Erhenburg là nhà văn nổi tiếng, thì cứ tưởng ông là nhà thơ. Như thế, trong một nhà văn xuôi vẫn tiềm ẩn một nhà thơ. Mỗi một khi bức bối quá mà chưa kịp viết văn xuôi, thì đột ngột, thơ hiện ra. Nếu cần phải nói thêm, thì có thể nói, thơ là phần thật thà nhất của con người. Mới đây, tôi đọc một bài viết về sự xuống cấp văn hóa Việt Nam, trong đó có câu: “ Việt Nam sẽ khó trở thành quốc gia thành công, nếu ngụy giá trị vẫn tiếp tục chiếm chỗ của chân giá trị, nếu giả dối vẫn lấn át sự tử tế và chân thật.”( Phạm Sỹ Quý). Tôi nghĩ, khi một nhà văn xuôi ở Việt Nam còn làm được thơ, thì sự giả dối vẫn chưa thể lấn được sự tử tế, và cuộc đấu dai dẳng ấy vẫn còn là 50/50. Tôi lạc quan quá chăng ? Không hề. Tôi là người bi quan hơn tôi tưởng, và hơn nhiều người tưởng về tôi. Nhưng người bi quan vẫn có thể có đức tin. Tôi là người có đức tin. Cái này thì không dính gì tới bi quan hay lạc quan cả. Tôi vẫn tin vào những điều tốt đẹp, vì nó mà con người sống, tranh đấu, bảo vệ, thất vọng và hy vọng.
Nhà văn Trang Thế Hy chắc cũng nghĩ như thế, nên ông đã sống chết với những gì mình viết ra, những gì mình đau đớn, những gì mình mong chia sẻ. Thơ của ông, hầu hết những bài thơ chỉ viết ra trong một năm, cũng vì niềm tin ấy, mục đích ấy. Không phải vì giải thưởng hay bất cứ sự tôn vinh thực tình hoặc giả tạo nào hết.
Đây là bài thơ tôi viết để tưởng nhớ ông, khi đọc lại những bài thơ ông viết trong một năm. 
 
HẦU HẾT NHỮNG BÀI THƠ VIẾT TRONG MỘT NĂM
 
                                                     Nhớ nhà văn Trang Thế Hy
 
giống chùm hoa rau muống
tim tím linh cảm
những bài thơ viết trong một năm
chảy đùng đục con kênh trước nhà
vườn dừa lão tiếng tắc kè quá khứ
đong đưa chùm quả nắng
người minh triết mặc quần xà lỏn hai chân như hai cây sậy sẽ sàng
đong đưa thời gian
“ anh chờ gì anh thương tiếc gì chăng ?”
chợt câu thơ Lermontov rơi
như con chuột
từ ngọn dừa
 
năm tháng chiến tranh chùm lưỡi câu mùa nước nổi
thả vào im lặng
anh không chờ không đợi không giật không bắt
những con cá gầy
những câu thơ mơ màng thút thít
như đứa trẻ ngơ ngây
những câu thơ cố tình triết lý
che giấu nỗi bơ vơ
thiệt tình, chúng ta là nỗi bơ vơ
không gọi ra được
một nhịp gãy
không hợp long
một cầu vồng
đứt đoạn
một cây dừa
đơn độc
một vị ngọt
lạc loài
một cái chai nút lá chuối khô
rỗng
 
buổi trưa ngồi quán gió
nhai rất kỹ miếng lá cách nước cốt dừa om lươn
không còn răng
chỉ là nhai theo thói quen
 
anh nhai ký ức
hầu hết những bài thơ viết trong một năm
 
                                                                           2/1/2011
 
 
Từ khóa: Từ khóa:  Trang Thế Hy Gió đưa gió đẩy Thanh Thảo
Ý kiến của bạn: