TRI THỨC TRUYỀN THỐNG QUA MỘT VÀI HIỆN TƯỢNG NGÔN TỪ -TIểu luận TRỊNH SÂM

04/12/2022 09:35:13 AM         

Tri thức truyền thống là cả một kho tàng kinh nghiệm được tích tụ qua nhiều thế hệ của cộng đồng diễn ngôn. Trong đó, không ít tri thức dù được cảm nhận có tính chất trực giác nhưng lại rất gần gũi với lý thuyết khoa học.

Vanvn-  CẬP NHẬT NGÀY: 15 THÁNG BA, 2021 LÚC 15:35

 
1. Bạn có bao giờ chú ý đến cách nói lạ lùng kiểu như: nghĩ thầm trong bụng, bụng nghĩ, ấm bụng, hẹp bụng, thiệt bụng, tính không để bụng, bóp bụng, ưng bụng, sống để bụng chết mang theo, bụng đàn bà dạ con nít; sáng dạ, tối dạ, hả dạ, phỉ dạ, mát dạ, sâu ao béo cá, độc dạ hư mình; vỡ lòng, học thuộc lòng, nóng lòng, thật lòng, đem lòng thương nhớ, phải lòng, dằn lòng, mở lòng, dối lòng, rối lòng, cầm lòng chẳng đậu, hả lòng hả dạ, ghi lòng tạc dạ; sốt ruột, nát ruột, nát gan, đứt ruột, rút ruột, buồn ruột; lớn gan, dạn gan, gan dạ, bạo gan, cả gan, gan thỏ đế v.v..
Như vậy, bụng, dạ, lòng gan, ruột là những biểu tượng vừa cho lý trí, nhận thức, suy nghĩ, vừa cho ghi nhớ, cảm xúc, tình cảm, tính tình và cả nhân cách.
Ta đừng vội xem thường loại tri thức này, tuy, có thể chỉ là những cảm nhận và đúc kết có tính chất trực giác, nhưng đó là những gợi mở cho những tiền đề khoa học. Kết quả nghiên cứu của một số công trình y học công bố  ở Pháp (2011, Berthelot L. et Warnet J.) và Hoa Kỳ (1999, Michael D. Gershon), chứng minh được rằng, bụng, lòng, ruột, nói rộng ra là hệ tiêu hóa chính là cơ quan não bộ thứ hai (second brain) của con người.
Thế nhưng, Tự Điển Tiếng Việt (Hoàng Phê, 2009), lại giải thích, đầu con người được coi là biểu tượng của suy nghĩ, nhận thức; tim là biểu tượng của tình cảm, tình yêu. Ghi nhận như thế cũng không sai, tiếng Việt hiện đại có nhiều chứng cứ củng cố cho nhận xét này như: nghĩ nát cả đầu, điên đầu, cơ quan đầu não, tên ấy đầu óc lắm đấy ; trái tim nhân hậu, trái tim mềm yếu, tiếng gọi của con tim, trái tim sắt đá v.v..
Nhà nghiên cứu Trịnh Sâm
Có thể ghi nhận, trường nghĩa bụng, dạ, gan, lòng, ruột là các biểu đạt cũ, thuộc tri thức truyền thống thể hiện cách nhận thức thơ ngộ của dân gian. Còn sự lưỡng phân, đầu /tim là cách biểu đạt mới, là hình thức vay mượn. Ở đây dấu ấn của sự phân chia nhị nguyên phương Tây thể hiện rất rõ: lý trí/ tình cảm, hồn/ xác, tự nhiên/ Con người. Sự phân lập đầu / tim  còn dựa vào phương thẳng đứng, trên quan trọng hơn dưới, lý trí quan trọng hơn tình cảm, nghĩa là cách lý giải có nguồn gốc ngoại lai. Trong khi đó, cách tri nhận bụng, dạ gan, lòng, ruột truyền thống của người Việt lại thiên về nhất nguyên, theo phương nằm ngang và bình đẳng như nhau.Và tất cả đều được coi là tri thức nghiệm thân (Embodiment), tức con người dùng hiểu biết của cơ thể để tri nhận thế giới.
2. Hiện nay với nhiều người, trong nhiều tài liệu, việc xác định bờ trái (tả ngạn) và bờ phải (hữu ngạn) của một con sông, là chuyện không cần bàn cãi, được hình dung như sau: Hữu ngạn được xác định là bờ bên phải của sông, nhìn theo hướng nước chảy từ nguồn xuống; tả ngạn là bờ bên trái của sông, nhìn theo hướng nướcchảy từ nguồn xuống. Đây là cách định vị khá phổ biến trong văn hóa phương Tây.
Thế nhưng,trong tâm thức người Việt xưa đã từng tồn tại cách định vị phương hướng theo chiều ngược lại: từ hướng biển nhìn lên nguồn. Quả nhiên, chỉ xuất phát từ điểm nhìn này, ta mới giải thích được, tại sao cha ông chúng ta ngày xưa lạ đặt tên cho hai con sông vốn là thượng nguồn của Sông Hương ở Huế là Hữu Trạch (bên phải sông Hương, nhìn từ biển lên nguồn, bờ Bắc sông Hương) và Tả Trạch (bên trái sông Hương nhìn từ biển lên nguồn, bờ Nam sông Hương).
Thật ra,còn nhiều cứ liệu khác cho thấy khi định vị tả/ hữu và tả ngạn/hữu ngạn, tổ tiên ta đã xuất phát điểm nhìn từ dưới biển lên nguồn, ít nhất là đối  khu vực miền Trung mà tiêu biểu là Huế. Không phải ngẫu nhiên, cư dân miền Trung khi mở móng làm nhà đều hướng về hướng Đông, gác cây đòn dông làm  nhà thì gốc bao giờ cũng hướng Đông, ngọn hướng Tây. Và theo phong thủy dân gian Việt Nam, hướng Nam là hướng tốt (Lấy vợ  hiền hòa, Xây nhà hướng Nam; Nhà hướng Nam, Không l&a